Đầu tư EB-5 có thẻ xanh – Vì sao sinh viên quốc tế tại Mỹ nên cân nhắc?

Tốt nghiệp tại Mỹ có được cấp thẻ xanh thường trú nhân ở Mỹ?

Nhiều phụ huynh cho con cái đi du học tại Mỹ bằng visa F-1 thường mong muốn các con sẽ được ở lại Mỹ sau khi tốt nghiệp để tiếp tục làm việc hay sinh sống lâu dài. Đó cũng là nguyện vọng và ý định của nhiều sinh viên quốc tế sau thời gian du học tại Mỹ. Tuy nhiên, visa F1 là loại visa du học mà sinh viên không thể nhập cư Mỹ cho dù ở bậc đại học, cao học hay thậm chí tiến sĩ; và ở bất kỳ một trường đại học nào dù danh tiếng bậc nhất. Các sinh viên này sẽ gặp nhiều thách thức để có thể thực hiện ước mơ này. Câu hỏi đáng ngại nhất đối với hầu hết các bạn sau tốt nghiệp là “liệu bạn có thể có giấy phép làm việc để thường trú ở Mỹ? và ai sẽ bảo lãnh hay tài trợ cho bạn” Và câu trả lời thường gặp là “tôi hy vọng sẽ tìm được một công việc phù hợp với ngành nghề học tập và mong tìm được một tổ chức nào đó đồng ý tài trợ cho tôi ở lại làm việc ở Mỹ” để tiến tới thẻ xanh. Thực tế là hầu hết các bạn đều không thể trở thành thường trú nhân Mỹ trong điều kiện họ thiếu một bộ kỹ năng quan trọng mà kiến thức, bằng cấp, tài năng hay kỹ năng đặc biệt nào của họ đều chưa đủ. Giới chuyên môn gọi là “kỹ năng tìm thẻ xanh”. Thực tế nhiều trường hợp cha mẹ người Việt đến gặp chúng tôi với nỗi buồn phổ biến là con cái của họ “rút số không trúng thưởng như mong đợi” với visa H1-B, mặc dù con cái họ đã từng tìm được công việc tốt. Sau cùng họ vẫn phải quay về Việt Nam. Điều này thường xảy ra bất ngờ và không nằm trong dự tính hay kế hoạch ban đầu của cha mẹ và kể cả con cái.

Đầu tư EB-5 có thẻ xanh – Vì sao sinh viên quốc tế tại Mỹ nên cân nhắc?

Thẻ xanh Mỹ – ngày càng khó hơn đối với sinh viên quốc tế

Ngươc dòng thời gian trở lại thời điểm những năm 1980, nước Mỹ thu hút nhân tài và không có hạn ngạch cho visa H-1B nên các sinh viên tốt nghiệp dễ dàng tìm được thẻ xanh. Visa H1B Mỹ là loại visa tạm trú, không định cư cho phép chủ doanh nghiệp Mỹ tuyển dụng và thuê những chuyên gia người nước ngoài làm việc tại Mỹ trong một khoảng thời gian nhất định từ 3 đến 6 năm. Do số lượng visa tối đa hiện tại là 65,000 cho mỗi năm tài khóa, khá thấp so với nhu cầu thực tế nên chính phủ thường tiến hành rút thăm ngẫu nhiên để phân phát số visa này.

Trước tiên, sinh viên tốt nghiệp chỉ cần xin visa thuộc chương trình OPT (Optional Practical Training). Kế tiếp họ chuyển trạng thái sang visa H-1B nhanh sau khi hoàn tất thủ tục chứng nhận lao động bằng cách thu thập dữ liệu về những khả năng độc nhất của họ so với mặt bằng lao động chung đang thiếu những kỹ năng đó. Bên cạnh đó, người tốt nghiệp còn có thêm cơ hội khác để có thẻ xanh 10 năm và làm việc tại Mỹ qua các chương trình lao động thường không có tính cạnh tranh cao với người bản xứ. Đó là các chương trình lao động EB-3 với hạn ngạch 10.000 visa mỗi năm dựa vào công việc được doanh nghiệp Mỹ bảo lãnh và tài trợ từ không có kỹ năng (unskilled) đến kỹ năng (skilled). (chưa kể các chương trình cấp visa nhập cư và thẻ xanh cho những nhân tài có thành tích xuất sắc thuộc các diện EB-1/2 khác).

Ngày này hầu hết người tốt nghiệp ở Mỹ đều không có thẻ xanh và thường bị buộc phải trở về nước trước khi có cơ hội được tham gia chương trình OPT có thời gian 1-3 năm. Ngay cả khi họ không may mắn nếu thất bại khi rút thăm ngẫu nhiên mặc dù đã có OPT cho phép sinh viên tốt nghiệp có được kinh nghiệm bằng việc bắt đầu thực tập, đi làm đối với chuyên ngành theo học tại Mỹ. Rõ ràng sinh viên quốc tế sở hữu thẻ xanh Mỹ có nhiều lợi thế và quyền chọn lớn hơn nhiều so với những người không có thẻ xanh. Cụ thể, người có thẻ xanh này có quyền làm việc, sinh sống hợp pháp và lâu dài tại Mỹ; được hưởng các quyền lợi đáng kể như công dân Mỹ từ học phí tài trợ hay vay tiền học từ chính phủ; hưởng học bổng, bảo hiểm và quan trọng là làm việc hợp pháp. Trong khi đó OPT rất hạn chế về thời lượng. Đương nhiên, các công ty Mỹ sẽ ưu tiên thuê người lao động có thẻ xanh hay công dân Mỹ. Họ thường không muốn thuê và đào tạo sinh viên mới tốt nghiệp chỉ để thấy họ rời đi sau 1 hoặc 2 năm làm việc. Sinh viên tốt nghiệp mong muốn có được một công việc để sử dụng quyền chọn OPT của họ. Đôi khi họ phải chấp nhận những công việc không phù hợp với kinh nghiệm và lĩnh vực chuyên môn họ được đào tạo. Người có thẻ xanh Mỹ có thể lựa chọn trong số các lời mời làm việc nhận được trong lĩnh vực phù hợp với mục tiêu phát triển nghề nghiệp và vị thế của họ. Điều này sẽ cho phép họ đưa ra quyết định tốt hơn dựa trên vị trí, mức lương và lãnh thổ địa lý mong muốn. Rất tiếc là những sinh viên không có thẻ xanh Mỹ sẽ không thể có tùy chọn như vậy. Ngay cả những ý tưởng chương trình đổi mới như “Visa Startup” của thời Tổng thống Obama nhằm khuyến khích tinh thần kinh doanh nước ngoài cũng đã bị Chính quyền Trump hủy bỏ.

Giải pháp sở hữu thẻ xanh Mỹ nhanh chóng & an toàn cho sinh viên quốc tế

Vì sao việc đầu tư visa EB-5 là sự lựa chọn tốt hơn so với việc cố gắng có được visa H-1B hoặc kể cả visa E-2 dành cho doanh nhân? Thứ nhất, việc từ chối H-1B và yêu cầu cung cấp bằng chứng (RFE), sự chậm trễ trong thời gian xử lý cho visa loại này đều tăng lên ở mức báo động trong bối cảnh chính trị hiện tại. Thứ hai, visa E-2 đòi hỏi đương đơn là đương đơn thuộc danh sách các quốc gia có Hiệp ước thương mại và hàng hải với Mỹ (như Nhật Bản, Grenada, Thỗ Nhĩ Kỳ, Canada…) hoặc đương đơn phải đầu tư để sở hữu quốc tịch các nước này trước khi đầu tư theo visa E2 vào Mỹ để kinh doanh và sinh sống tự do. Do đó EB-5 rất có thể là lựa chọn nhanh và an toàn nhất để có được tình trạng thường trú nhân Mỹ nếu không xảy ra tình trạng tồn đọng visa định cư cho một quốc gia cụ thể. Theo đó mỗi quốc gia được xét cấp trung bình 700 visa/năm. Các quốc gia kể cả Việt Nam hiện visa không bị tồn đọng kéo dài như Trung Quốc …

EB-5 mang đến những lợi ích gì?

  • Sinh viên tốt nghiệp không cần bất kỳ công ty cụ thể nào tài trợ hoặc cung cấp cho họ một lời mời làm việc
  • EB-5 dẫn đến thẻ xanh và cuối cùng là quốc tịch Mỹ. Tuy nhiên, OPT sẽ hết hạn sau một khoảng thời gian xác định là 12 tháng. Sinh viên STEM có thể được gia hạn thêm 24 tháng.
  • EB-5 cung cấp cho đương đơn và những người phụ thuộc như vợ/chồng và con cái chưa kết hôn dưới 21 tuổi, tự do học tập với học phí “tại tiểu bang” với chi phí giảm, làm việc và sinh sống tại Mỹ mà không cần thêm yêu cầu nhập cư.

Khác biệt giữa visa EB-5 và các loại visa khác

Không giống như EB-5, visa H-1B được rút thăm ngẫu nhiên mỗi năm một lần. Nhìn chung, có 250.000 người nộp đơn mỗi năm cho 65.000 đến 85.000 vị trí cung cấp. Có hiệu lực từ ngày 9 tháng 8 năm 2018, bất kỳ sinh viên nào có visa F, J hoặc M sẽ bắt đầu hiện diện bất hợp pháp vào ngày sau khi môn học hoặc OPT của họ kết thúc. Điều này có thể dẫn đến kết quả nghiêm trọng nếu sinh viên hiện diện bất hợp pháp tích lũy hơn 180 ngày ở Mỹ. Họ sẽ bị cấm nhập cảnh vào Mỹ trong 3 năm. Nếu vi phạm kéo dài hơn 365 ngày, họ sẽ bị cấm thi hành án trong 10 năm. Đặc biệt Đạo luật về Tính liêm chính và Cải cách EB-5 năm 2022 cho phép nộp đơn I-526 và I-485 cùng một lúc (“EB-5 Concurrent Filing” – Nộp hồ sơ đồng thời EB-5) có thể giúp đương đơn có thêm ưu thế khi đạt được trạng thái thường trú và sở hữu thẻ xanh Mỹ nhanh hơn với visa F1 có sẵn.

Thời hạn OPT có hạn và cơ hội được chấp thuận thấp của H1-B không khuyến khích các nhà tuyển dụng tiềm năng mở rộng các lời mời làm việc tương xứng với trình độ học vấn của sinh viên quốc tế. Họ chọn thuê một ứng viên có năng lực kém hơn được phép làm việc tại Mỹ. Do đó, ngày càng có nhiều người nộp đơn EB-5 từ các quốc gia như Ấn Độ, Hàn Quốc, Việt Nam và Brazil.

Có một quan niệm sai lầm to lớn rằng visa E-2 là một sự thay thế cho visa EB-5. Thực chất E-2 là visa không định cư, trong khi EB-5 là visa định cư. Điều này có nghĩa là visa E-2 có ngày hết hạn nhất định. Nó có thể được gia hạn nhưng kỳ vọng của cơ quan di trú là đương đơn sẽ rời Mỹ khi mục đích đến Mỹ của họ không còn hiệu lực.

Thông thường, sinh viên nộp đơn sớm cho EB-5 không cần phải xem xét E-2. Đó là một khoản chi phí bổ sung không cần thiết. Nếu visa F1 và OPT sắp hết thời hạn, không thể cho phép người ấy ở lại Mỹ lâu hơn nữa, thì nên xem xem xét đầu tư E-2 vì visa này thường có thể nhận được trong vòng chưa đầy 6 tháng và đôi khi nhanh hơn thế. Khi người nộp đơn đã đảm bảo visa E-2, bây giờ người đó có thể nộp đơn xin EB-5. Điều này có thể được thực hiện bằng cách mở rộng nhiệm vụ của doanh nghiệp E-2 hoặc đầu tư riêng vào một dự án do Trung tâm Vùng tài trợ. Mặc dù có thể khó thay đổi từ E-2 sang đầu tư trực tiếp EB-5, nhưng điều này hoàn toàn khả thi. Để chuyển đổi thành công và đảm bảo đáp ứng các yêu cầu visa EB-5, đương đơn cần cung cấp kế hoạch kinh doanh khả thi và phù hợp.

Không giống như mô hình đầu tư gián tiếp EB-5 qua Trung tâm vùng, chương trình đầu tư EB-5 trực tiếp là không có ngày kết thúc. Vì nhà đầu tư đã đầu tư vào E-2 nên để đủ điều kiện kinh doanh ngay bây giờ cho EB-5, họ sẽ chỉ được yêu cầu đầu tư bổ sung sự chênh lệnh cần thiết. Nếu nơi đầu tư dự án thuộc về khu vực việc làm được nhắm mục tiêu TEA, thì họ sẽ cần làm tròn khoản đầu tư lên 800.000 đô la so với yêu cầu 1.05 triệu đô la tiêu chuẩn. Tất nhiên, họ rất có thể sẽ cần thuê thêm nhân viên do yêu cầu tạo ra ít nhất 10 việc làm toàn thời gian.

Thời điểm nào phù hợp để sinh viên nộp đơn đầu tư EB-5?

Nếu một sinh viên năm thứ 1 nộp đơn vào học kỳ đầu tiên hoặc thứ hai, thì họ có thể nhận được thẻ xanh Mỹ vào năm cuối cấp.Điều này sẽ giúp mở ra cơ hội cho họ có được công việc vào mùa hè mơ ước. Các công việc mùa hè trong năm học cơ sở thường chuyển thành các vị trí cố định khi sinh viên nhận được lời mời làm việc vào cuối mùa hè trong hầu hết các trường hợp.

Đăng ký vào năm thứ 2 cũng là một lựa chọn tuyệt vời vì sinh viên trong hầu hết các trường hợp để nhận được thẻ xanh Mỹ trước khi tốt nghiệp. Trong năm cuối cấp, khi nộp đơn cho một việc làm cố định, việc sở hữu thẻ xanh có thể là yếu tố quyết định để họ được nhận việc hay bị từ chối việc làm.

Điều này cũng đúng nếu họ nộp đơn vào năm cuối đại học. Nếu thẻ xanh có điều kiện không đến vào thời điểm họ cần bắt đầu công việc mới sau khi tốt nghiệp, họ luôn có thể sử dụng OPT để lấp đầy khoảng trống trong khi chờ thẻ xanh của mình. Các nhà tuyển dụng sẽ dễ dàng tiếp nhận hơn nhiều nếu họ tin rằng sinh viên sẽ sử dụng OPT như một cầu nối cho đến khi chứng nhận lao động theo bước đầu tiên của quy trình EB-5, đó là chính là bước được phê duyệt I-526.

Cuối cùng, sinh viên các năm cuối cũng có thể nộp đơn xin EB-5 mặc dù điều mà một số người có thể gọi là “muộn”, vì họ có thể thêm các tháng của năm cuối cấp vào các tháng OPT và thường có đủ thời gian để có thể ở lại Mỹ trong khi đơn xin EB-5 đang chờ xử lý, đặc biệt khi nộp đơn I-526 và I-485 cùng một lúc để đương đơn có thể sở hữu thẻ xanh Mỹ nhanh hơn với visa F1 có sẵn.

EB-5 chắc chắn không dành cho tất cả mọi người. Sinh viên đến từ các quốc gia trải qua tình trạng tồn đọng visa nên suy nghĩ gấp đôi trước khi khiến cha mẹ họ vui mừng về triển vọng định cư. Ho cần hiểu họ cần chờ đợi khá lâu để sở hữu thẻ xanh đến mức có thể đầu tư đáng kể thời gian và tiền bạc. Mặt khác, đối với công dân của các quốc gia khác, như Ấn Độ, đó có thể là lựa chọn khả thi duy nhất.

Nguồn: eb5investors.com 

Hãy đầu tư thẻ xanh Mỹ cho con cái đang du học thông qua EB-5

Quý nhà đầu tư nếu có bất kỳ sự quan tâm đến định cư Mỹ / EB-5,hãy liên hệ ngay với Văn phòng công ty Connect New World (CNW) để được tư vấn 1:1 cùng Ban Giám đốc công ty, những người đã định cư Mỹ thành công, hoặc qua Hotline ‎+84 908 835 533.
Xem thêm tin tức định cư Mỹ: