[MUST READ] Đề xuất cải cách chương trình EB-5

cải cách chương trình EB-5

Tài liệu này nhấn mạnh đến các vấn đề chính trong Chương trình Nhà đầu tư EB-5 (“Chương trình EB-5”) mà Quốc hội cần giải quyết thông qua cải cách chương trình EB-5 về luật. Mục đích của Chương trình EB-5 là để kích thích tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ, đặc biệt là ở các khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao. Tuy nhiên, ở hiện tại, Chương trình EB-5 đang phải đối mặt với những trở ngại nghiêm trọng trong việc đạt được mục tiêu này.
Rào cản đầu tiên là tình trạng tồn đọng ngày càng tăng của các nhà đầu tư nhập cư đang chờ thị thực do giới hạn visa hàng năm là 10.000 đối với thị thực EB-5. Visa tồn đọng có thể dẫn đến việc đầu tư thông qua Chương trình EB-5 sẽ suy giảm do sự không chắc chắn và thời gian chờ đợi dài để có thể nhập cảnh vào Hoa Kỳ. Một rào cản thứ hai là việc chỉ định các khu vực việc làm mục tiêu (các vùng TEA), mà hiện nay cho phép đa số các dự án đủ điều kiện bằng cách kết hợp đường điều tra dân số và chọn các dữ liệu tốt nhất. Kết quả là, trong nhiều trường hợp, vốn EB-5 không thúc đẩy phát triển kinh tế ở các cộng đồng có tỷ lệ thất nghiệp cao. Thay vào đó, nó được đưa vào các dự án chỉ đơn giản là mong muốn tận dụng lợi thế của chi phí đầu tư EB-5 thấp ở các vùng này.

Thông qua bài báo cáo này, EB5 Affiliate Network (EB5AN) hy vọng sẽ cung cấp một lý do thuyết phục để Quốc hội ban hành cải cách chương trình EB-5. Chương trình EB-5 có tiềm năng lớn để giúp các cộng đồng cần việc làm và kích thích kinh tế. EB5AN hỗ trợ các nỗ lực của Quốc hội để tăng cường Chương trình EB-5 bằng cách giải quyết vấn đề xin visa và xác định lại quy trình xác định TEA.

EB5 Affiliate Network (EB5AN)

EB5AN là một nhà điều hành trung tâm khu vực chuyên nghiệp chuyên kích thích kinh tế tăng trưởng ở Hoa Kỳ thông qua Chương trình EB-5. Trong 5 năm qua, EB5AN đã tài trợ hơn 200 triệu đô-la cho các khoản đầu tư vốn EB-5 để tạo ra hơn 10.000 việc làm cho công nhân Mỹ – đặc biệt là ở các khu vực có thu nhập thấp và thất nghiệp cao.

EB5AN nhận ra rằng cần cải cách chương trình EB-5. Các trang sau tóm tắt các vấn đề Chương trình EB-5 đang đối mặt và đưa ra các giải pháp cải cách chương trình EB-5 hợp lý, có thể giải quyết được những vấn đề này.

Các vấn đề EB-5 đang đối mặt

Tồn đọng Visa

Việc một năm tài chính nhất định chỉ được có 10.000 visa EB-5 dẫn đến nhu cầu thị thực EB-5 vượt quá nguồn cung. Số lượng visa được cấp cho mỗi quốc gia giới hạn là 7% của 10.000 Visa EB-5 mỗi năm. Giới hạn cho mỗi quốc gia này có thể bị vượt quá nếu bất kỳ visa EB-5 nào được giữ lại sau khi tất cả người nộp đơn từ tất cả các quốc gia khác đều được cấp visa. Trong lịch sử, Trung Quốc đã tạo ra nhiều nhà đầu tư EB-5 nhất, và nhu cầu thị thực từ các công dân Trung Quốc đại lục đã vượt quá nguồn cung. Kết quả là công dân Trung Quốc có thể phải chờ đợi mười (10) năm hoặc nhiều hơn cho một visa EB-5. Tính đến tháng 5 năm 2018, tồn đọng visa cũng bắt đầu ảnh hưởng đến các nhà đầu tư Việt Nam; đến năm 2020, dự kiến sẽ ảnh hưởng đến các công dân từ Ấn Độ. Các nước khác dự kiến sẽ sớm phải đối mặt với EB-5 tồn đọng visa bao gồm Brazil, Đài Loan, và Hàn Quốc.

Thời gian chờ đợi do tồn đọng visa có thể ảnh hưởng đáng kể và tiêu cực đến các dự án, nhà đầu tư và con của các nhà đầu tư có ý định đạt được tình trạng thường trú thông qua Chương trình EB-5.

Chỉ định vùng TEA

TEA được tạo ra với dự định thu hút đầu tư EB-5 vào các cộng đồng có tỷ lệ thất nghiệp cao hoặc khu vực nông thôn ít có khả năng nhận tài trợ cho việc phát triển. Bằng cách cho phép các nhà đầu tư đầu tư một nửa số tiền tiêu chuẩn 500.000 đô la thay vì 1 triệu đô la – TEA khiến cho dự án được tiêu thụ nhiều hơn. Việc càng nhiều các dự án hấp dẫn hơn mang lại nhiều đầu tư hơn trong thời gian ít hơn, tạo nên nhu cầu cần các dự án trong những khu vực TEA này để huy động nhiều vốn hơn và tạo ra việc làm mới nhanh hơn. Tuy nhiên, quy trình chỉ định TEA cho phép các dự án lạm dụng hệ thống và đủ điều kiện cho ngưỡng đầu tư thấp hơn mặc dù dự án không thực sự nằm trong khu vực thất nghiệp cao.

Mặc dù chính sách EB-5 quy định rằng một vùng TEA phải có tỷ lệ thất nghiệp là 150% mức trung bình quốc gia, phương pháp xác định tỷ lệ thất nghiệp của một địa điểm được quyết định bởi các tỉnh bang riêng lẻ. Trong khi quá trình này đặt gánh nặng chỉ định TEA lên các cơ quan nhà nước — do đó USCIS sẽ giảm bớt thời gian xét xử đơn xin nhập cư — các tiểu bang có quyền lợi kinh tế được đầu tư trong đầu tư nước ngoài. Điều này dẫn đến việc xác định chỉ định TEA trở nên dễ hơn. Hầu hết các tiểu bang cho phép nhiều địa điểm đủ điều kiện làm TEA bằng cách chọn một tập hợp các vùng điều tra dân số tiếp giáp với vị trí dự án để dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp đủ điều kiện. Sự kết hợp này cho phép các nhà phát triển có được trạng thái TEA cho nhiều dự án. Cách tiếp cận lỏng lẻo này cho phép các công dân nước ngoài đầu tư vào các khu vực ít cần vốn EB-5 và tránh xa các khu vực có nhu cầu cần vốn lớn nhất, làm suy yếu mục đích ban đầu của việc chỉ định TEA.

Đề xuất giải pháp cải cách chương trình EB-5

Các giải pháp cải cách chương trình EB-5 cho hai vấn đề nêu trên là tương đối đơn giản, cần thiết cho sự tiếp tục thành công của Chương trình EB-5, và có thể dẫn đến tác động tích cực to lớn đến các khu vực kém về kinh tế bằng cách mang lại việc làm và phát triển rất cần thiết. EB5AN hỗ trợ đầy đủ bất kỳ cải cách lập pháp hợp lý nào của Quốc hội để đảm bảo rằng đầu tư EB-5 chảy vào cộng đồng với nhu cầu lớn nhất.

Tồn đọng Visa

Giải pháp cải cách chương trình EB-5 đơn giản nhất của sự tồn đọng visa là sự gia tăng lượng cấp EB-5 có sẵn mỗi năm tài chính. Bất kỳ sự gia tăng số lượng visa có sẵn sẽ có tác động tích cực đối với các nhà đầu tư và gia đình đã đầu tư thành công vào Hoa Kỳ và đang chờ để di cư.

Quốc hội cũng có thể áp dụng giới hạn visa EB-5 hàng năm chỉ cho các nhà đầu tư – chứ không phải tính luôn cả người phụ thuộc. Trong lịch sử EB-5 từ trước đến nay, mỗi đương đơn thường kèm thêm hai người phụ thuộc, tương ứng với ba thị thực cho mỗi đơn I-526 dược phê duyệt, tất cả đều được tính vào hạn mức 10,000 visa. Vào năm 2016, trong tổng số 9,863 visa EB-5 được cấp, chỉ 3.426 visa là cấp cho người nộp đơn, trong khi đó 2.233 thuộc về vợ chồng đi kèm và 4.204 dành cho con nhỏ. EB5AN tin rằng mục đích của luật là phân bổ 10.000 visa cho các nhà đầu tư. Năm 1990, khi chương trình EB-5 được thảo luận tại Quốc hội, đại diện Lamar Smith (R-TX), Thượng nghị sĩ Paul Simon (D-IL), Thượng nghị sĩ Ted Kennedy (D-MA), và các thành viên khác đã giải thích luật là cấp thị thực cho 10.000 nhà đầu tư và tạo 100.000 công việc tại Mỹ. Đại diện Smith đã nói rằng “10.000 nhà đầu tư này. . . sẽ tạo ra ít nhất là 100.000 công việc”. Thượng nghị sĩ Simon cũng bảo rằng chương trình sẽ “cho phép lên tới 10.000 người đầu tư vào đây”, và các khoản đầu tư như vậy sẽ “cung cấp tới 100.000 việc làm mới cho người Mỹ. Thượng nghị sĩ Kennedy cũng chỉ ra rằng “10.000 thị thực dựa trên việc tạo việc làm được cấp cho các nhà đầu tư đầu tư vào các doanh nghiệp.” Đại diện John Bryant (D-TX), người phản đối việc thành lập Chương trình EB-5, cũng hiểu rằng visa là dành “cho 10.000 người hội đủ điều kiện mua quốc tịch của Hoa Kỳ. . . sau đó, họ có thể mang theo vợ và con của họ.”

Việc không tính những người hưởng lợi phụ thuộc vào hạn mức thị thực cấp dựa trên lao động cũng không phải là chưa từng có tiền lệ. Năm 2005, Quốc hội đã sửa đổi Đạo luật nhập cư và quốc tịch §204(b)(4) để giải quyết việc tiếp nhận các phát thanh viên quốc tế nhập cư theo thị thực EB-4. Điều khoản này đã cho phép Ban Điều hành Phát thanh viên Hoa Kỳ thỉnh nguyện cho một người nước ngoài và vợ / chồng và con cái của họ. Cho phép cấp “không quá 100” thị thực cho danh mục nhập cư đặc biệt này, “không bao gồm vợ / chồng và con cái.” Vợ chồng và con cái cũng được loại trừ hoàn toàn khỏi phép tính hạn mức visa theo Đạo luật nhập cư và quốc tịch §101(a)(27), đề cập đến việc tiếp nhận dịch giả và thông dịch viên từ Iraq và Afghanistan. Sổ tay Ngoại gia tại 502.5-11(B)(2)(a) quy định rằng “người phối ngẫu phụ thuộc và trẻ vị thành niên chưa lập gia đình” của đương đơn. . . không bị tính vào hạn mức tài khóa cho người thông dịch và phiên dịch. EB5AN tin rằng Chương trình EB-5 cũng nên nhận được sự đối xử tương tự, cho phép phân bổ ít nhất 10.000 visa cho các nhà đầu tư nhập cư, không tính các thành viên gia đình.

Mỗi giải pháp cải cách chương trình EB-5 sau đây đều có thể được áp dụng độc lập, nhưng việc áp dụng chúng cùng nhau sẽ mang lại tác động lớn hơn nhiều. Bằng cách mở chương trình EB-5 để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị thực nhập cư, Quốc hội sẽ gia tăng lượng tài chính giá rẻ cho các khu vực mà sự tăng trưởng và thành công phụ thuộc vào nguồn đầu tư này.

Xem thêm bài viết: Mặc cho backlog, tại sao EB-5 vẫn luôn được ưa chuộng

 Chỉ định vùng TEA

Khái niệm về các khu vực đầu tư mục tiêu là đúng đắn, nhưng việc triển khai đã không mang lại tác động mong muốn hay đạt được mục đích ban đầu của TEA. Các vấn đề với quy trình chỉ định TEA bao gồm sự kết hợp các vùng điều tra dân số và việc sử dụng dữ liệu chọn lọc vè việc làm, mỗi vấn đề vừa nêu đều có thể được giải quyết bằng cách áp dụng một tiêu chuẩn nghiêm ngặt đối với việc hình thành vùng TEA và lựa chọn rõ ràng một tập dữ liệu duy nhất.

Nhìn chung, EB5AN tán thành với các kế hoạch do Bộ An ninh Nội địa đề xuất với tiêu đề “Hiện đại hóa chương trình nhà đầu tư di trú EB-5” và các giải pháp lập pháp được đề xuất khác. trong Thông báo việc làm luật như đã đề nghị theo quy định (NPRM), USCIS đã đề xuất loại bỏ việc chỉ định vùng có tỷ lệ thất nghiệp cao-TEA bởi cấp tiểu bang. EB5AN tin rằng việc rút lại thẩm quyền chỉ định TEA từ các tiểu bang và triển khai một tiêu chuẩn minh bạch, đơn giản là bước quan trọng để chấm dứt tình trạng lạm dụng, trên cơ sở giả định cơ quan có thẩm quyền chỉ định TEA có thể làm việc khẩn cấp theo yêu cầu. Một lựa chọn bổ sung nữa là làm chặt chẽ hơn việc xác định vùng TEA và cho phép các tiểu bang tiếp tục chỉ định vùng TEA – với việc USCIS sẽ hoạt động như cơ quan có thẩm quyền xác thực phương pháp được sử dụng. USCIS sau đó sẽ chỉ đơn giản so sánh phương pháp trên văn bản chỉ định TEA với phương pháp đã được chấp thuận theo luật định để thông qua chỉ định TEA đó.

Tiêu chuẩn được đề xuất trong NPRM cho phép TEA được tạo thành từ các khu vực thống kê đô thị, các quận, thành phố và thị trấn với dân số lớn hơn 20.000 người đã từng có tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 150% so với tỷ lệ thất nghiệp quốc gia. Theo NPRM, TEA vẫn có thể bao gồm một hoặc nhiều vùng tiếp giáp nếu doanh nghiệp thương mại nhận vốn EB-5 hoạt động kinh doanh chủ yếu trong vùng đó – và phải bao gồm cả các vùng điều tra dân số liền kề. Trong những trường hợp này, tỷ lệ thất nghiệp trung bình của các vùng được bao gồm phải bằng ít nhất 150% tỷ lệ thất nghiệp quốc gia. NPRM cũng đề xuất sử dụng dữ liệu “Khảo sát cộng đồng Mỹ” của Cục điều tra dân số làm nguồn dữ liệu việc làm duy nhất cho tất cả các TEA. EB5AN đồng ý với giải pháp cách cách chương trình EB-5 đơn giản này.

 Kết luận

Chương trình EB-5 là một nguồn đầu tư nước ngoài đáng tin cậy ở Hoa Kỳ mà khi được triển khai đúng cách mang lại lợi ích kinh tế và tạo việc làm cho các khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao. Tuy nhiên chương trình đang phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng. Khả năng tồn tại của chương trình bị đe doạ bởi tình trạng tồn đọng, điều làm giảm sút sự quan tâm của các nhà đầu tư dành cho chương trình và làm giảm tính cạnh tranh của nó trên toàn cầu. Sự đe dọa còn đến từ quy trình chỉ định TEA đơn giản là không hoàn thành mục tiêu của chương trình. Quốc hội hiện có cơ hội giải quyết những vấn đề này bằng cách cải cách chương trình EB-5 thông qua việc gia tăng số lượng thị thực được phân bổ cho hạng mục EB-5, bằng cách làm rõ rằng thị thực là cho người nộp đơn chứ không phải những người phụ thuộc của họ, và bằng cách thay thế quy trình chỉ định TEA hiện tại với một tiêu chuẩn đơn giản. EB5AN tin rằng những cải cách chương trình EB-5 này có thể và nên được Quốc hội ban hành để tăng cường chương trình EB-5 và đảm bảo hoàn thành mục đích dự định của chương trình -thu hút đầu tư vào các khu vực khó khăn về kinh tế và tạo ra công ăn việc làm cho những nơi nào cần nhất.

Nguồn: Samuel B. Silverman, Michael Schoenfeld và Timothy Shih, Esq.
Quản lý đối tác của EB5 Affiliate Network, LLC
Được dịch bởi: CNW (www.connectnewworld.com)

Để được tư vấn miễn phí về chương trình và dự án EB-5, vui lòng đăng kí thông tin bên dưới, chúng tôi đang có nhiều dự án EB-5 hấp dẫn các nhu cầu của Nhà Đầu Tư với dịch vụ tận tâm và mức giá ưu đãi:


Đọc thêm tin tức định cư Mỹ mới nhất tại ĐÂY

——————-
Liên hệ với CNW để được tư vấn ngay về chương trình và dự án đầu tư.
C.N.W- Công ty Tư vấn Kết nối Thế giới Mới
Văn Phòng: Tòa nhà Empire Building, 26-28 Hàm Nghi, P. Bến Nghé, Q.1, TPHCM.
Hotline: ‎0908 835 533
Email: info@connectnewworld.com
Website: www.connectnewworld.com

Chúng tôi cam kết giúp khách hàng hiện thực hóa giấc mơ trở thành công dân toàn cầu thông qua đầu tư định cư nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả nhất.